Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (Mỹ) | |
---|---|
Quốc Gia | |
Khẩu hiệu |
|
“In God We Trust” (chính thức từ năm 1956, dịch nghĩa: “Chúng ta tin vào Chúa”) | |
Hành chính | |
Chính phủ | Liên bang |
Tổng thống | Donald Trump |
Phó tổng thống | Mike Pence |
Chủ tịch Hạ viện | Paul Ryan |
Chánh án Tối cao Pháp viện | John Roberts |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Tiếng Tây Ban Nha | |
Tiếng Pháp | |
Nhiều ngôn ngữ khác | |
Thành phố lớn nhất | Thành phố New York |
Địa lý | |
Diện tích | 9.826.630 km² |
Diện tích nước | 6,76 % |
Múi giờ | UTC-5 đến -10; mùa hè: UTC-4 đến -10 |
Dân cư |
|
Dân số (2016) | 324.720.797 người |
Thành thị: 76,4% | |
Mật độ | 33 người / km2 |
Lịch sử | |
Độc lập từ Anh | |
Tuyên bố | 4 tháng 7 năm 1776 |
Được công nhận | 3 tháng 9 năm 1783 |
Kinh tế | |
GDP (2016) | Tổng số: 18.558 tỉ USD |
Bình quân đầu người: 57.220 USD | |
Đơn vị tiền tệ | Đô la Mỹ ($) (USD) |
Thông tin khác | |
Mã ISO 3166-1 | USA |
Tên miền | .us .gov .mil .edu |
Mã điện thoại | +1 |
Hoa Kỳ hay Mỹ có tên đầy đủ là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States of America viết tắt là U.S hoặc USA) gồm 50 bang và đặc khu Colombia (tức là thủ đô Washington, D.C.) hợp thành.
Mục lục
[Ẩn]Quốc gia này nằm ở Tây bán cầu; Bắc giáp Canada (8.893 km); Nam giáp Mexico và vịnh Mexico (3.326 km); Đông giáp Đại Tây Dương; Tây giáp Thái Bình Dương; bang Alaska nằm phía Tây bắc Canada, quần đảo Hawaii nằm ở Thái Bình Dương.
Địa lý
Hoa Kỳ là quốc gia lớn thứ 3 thế giới sau Nga và Canada với diện tích 9.826.630 km², về dân số cũng đứng thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ với 324.720.797 người (đến tháng 2016).
Người Mỹ da trắng chiếm 77,7%; da đen: 13,2%; gốc Châu Á: 5,3%; thổ dân Mỹ và Alaska: 1,2%; thổ dân Hawaii và các quần đảo Thái Bình Dương thuộc Mỹ: 0,2%, các nhóm người khác: 2,4%. Tăng trưởng dân số hàng năm: khoảng 0,7% (trong đó 30% là nhập cư).
Khí hậu
Phần lớn là ôn hoà; nhiệt đới ở Hawai và Florida; giá rét ở Alaska; bán khô cằn ở phía Tây sông Mississipi và khô ở vùng Hồ Lớn phía Tây Nam.
Tài nguyên thiên nhiên
Có than đá, đồng, chì, molypđen, phốt phát, uranium, bauxit, vàng, sắt, thuỷ ngân, nicken, potash, bạc, tungsten, thiếc, dầu mỏ, khí tự nhiên, gỗ
Thiên tai
Sóng thần, núi lửa, động đất xung quanh vùng lòng chảo Thái bình dương; bão lớn dọc theo vùng bờ Ðại tây dương và vịnh Mê-hi-cô; lốc xoáy ở vùng trung Tây và Đông Nam; lở bùn ở California; cháy rừng ở phía Tây; ngập lụt; đất đóng băng ở phía Bắc Alaska
Môi trường
Ô nhiễm không khí do mưa axit; nguồn cácbon dioxit lớn nhất thế giới do đốt cháy các nguyên liệu rắn; ô nhiễm nước do dùng thuốc trừ sâu và phân hoá học trong nông nghiệp; rất ít nguồn nước sạch tự nhiên trong phần lớn vùng lãnh thổ phía Tây; tình trạng sa mạc hoá.
Lịch sử
Năm 1492, Christopher Columbus phát hiện Châu Mỹ.
Năm 1607, người Anh bắt đầu đặt chân lên Châu Mỹ và lập hệ thống thuộc địa ở hầu hết lãnh thổ Bắc Mỹ. Các nước Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan chiếm các vùng còn lại.
Năm 1775, cuộc đấu tranh giành độc lập nổ ra. Ngày 4.7.1776, các nhà cách mạng Mỹ công bố “Tuyên ngôn Độc lập”, tách Mỹ khỏi Đế quốc Anh, thành lập Hợp chúng quốc Mỹ gồm 13 bang. Năm 1783, Anh ký Hiệp định Versailles thừa nhận nền độc lập của nước Mỹ.
Ngày 7.9.1787, Hiến pháp Liên bang đầu tiên của Mỹ được thông qua và đến 4.3.1789 có hiệu lực. George Washington được bầu là Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ.
Sau cuộc nội chiến 1861 – 1865, Mỹ củng cố nền độc lập, phát triển kinh tế và mở rộng ảnh hưởng ở Tây bán cầu. Cuối thế kỷ 19, Mỹ trở thành nước tư bản chủ nghĩa hàng đầu thế giới, bắt đầu tranh giành thuộc địa, mở đầu bằng cuộc chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha (1898 – 1899).
Sau Chiến tranh thế giới II, Mỹ trở thành đế quốc mạnh nhất, tiến hành chiến lược toàn cầu khống chế các nước tư bản chủ nghĩa, ngăn chặn Chủ nghĩa Xã hội và phong trào giải phóng dân tộc. Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào hai cuộc chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên (1950 – 1953) và Việt Nam (1964 – 1975). Thất bại trong chiến tranh ở Việt Nam đẩy Mỹ vào thời kỳ suy yếu tương đối trong khi Tây Âu và Nhật Bản phát triển. Mỹ dồn sức củng cố thực lực đồng thời tiếp tục thúc đẩy chạy đua vũ trang với Liên Xô.
Sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), Chiến tranh Lạnh và trật tự thế giới hai cực kết thúc, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất có sức mạnh toàn diện về kinh tế, quân sự. Kể từ đó, Mỹ trong quá trình điều chỉnh chiến lược và tìm cách xây dựng trật tự thế giới mới phù hợp với thế và lực của Mỹ.
Sự kiện khủng bố tấn công Trung tâm thương mại quốc tế 11.9.2001 và khủng hoảng kinh tế 2008 – 2009 đã tác động lớn đến đời sống chính trị, an ninh, kinh tế – xã hội Mỹ, cũng như cách nhìn nhận và quan điểm của Mỹ về các vấn đề này, do đó tác động đến việc điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ.
Chính phủ và chính trị
Loại hình chính phủ
Mỹ là nước Cộng hòa Liên bang, theo chế độ tam quyền phân lập. Theo Hiến pháp Mỹ, quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Toà án tối cao. Các cơ quan nhà nước liên bang Mỹ hoạt động trên nguyên tắc ‘kiềm chế và đối trọng’ (check and balance), trong đó Hiến pháp Mỹ quy định quyền cụ thể của một cơ quan để kiểm soát chéo hai cơ quan còn lại. Hiến pháp Mỹ quy định rõ các quyền thuộc về nhà nước liên bang và chính quyền tiểu bang, trong đó các chính quyền tiểu bang có nhiều quyền hạn lớn.
Mỹ theo chế độ đa đảng, Đảng Dân chủ (thành lập năm 1828) và Cộng hòa (thành lập năm 1854) thay nhau nắm chính quyền. Từ sau Chiến tranh thế giới II, đã có 9 nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ thuộc Đảng Dân chủ và 9 nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ thuộc Đảng Cộng hòa.
Chính phủ liên bang
Tổng thống nắm quyền hành pháp, có quyền hạn của nguyên thủ quốc gia, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống có quyền phủ quyết các điều luật do Quốc hội thông qua và để đảo ngược quyền phủ quyết của Tổng thống cần 2/3 số phiếu của cả hai viện của Quốc hội. Nhiệm kỳ Tổng thống dài 4 năm. Kể từ 1951, mỗi Tổng thống chỉ được cầm quyền tối đa 2 nhiệm kỳ. Tổng thống bổ nhiệm các Bộ trưởng, Thứ trưởng và Trợ lý Bộ trưởng và phải được sự đồng ý của Thượng viện.
Tổng thống hiện nay là Donald Trump (Tổng thống thứ 45) và Phó Tổng thống Mike Pence.
Chính phủ Liên bang nắm quyền điều hành toàn bộ đất nước, quy định các chính sách thuế chung, chính sách đối ngoại, thương mại quốc tế và thương mại giữa các bang, chịu trách nhiệm về quốc phòng, an ninh, phát hành tiền, hệ thống đo lường, bản quyền… Các bang của Mỹ có hiến pháp và pháp luật riêng, nhưng không trái với Hiến pháp Liên bang.
Hiến pháp
17 tháng 9 năm 1787, có hiệu lực từ 4 tháng 3 năm 1789
Quyền bầu cử
18 tuổi trở lên, phổ thông
Cơ quan hành pháp
Người đứng đầu nhà nước và chính phủ: Tổng thống.
Bầu cử: Tổng thống và phó tổng thống được bầu bằng cùng một lá phiếu của những người đại diện (đại cử tri), những người này được lựa chọn trực tiếp từ từng bang; tổng thống và phó tổng thống có nhiệm kỳ 4 năm.
Cơ quan lập pháp
Quốc hội hai viện bao gồm:
Thượng viện: Gồm 100 Thượng nghị sĩ. Mỗi bang có hai Thượng nghị sỹ với nhiệm kỳ sáu năm. Phó Tổng thống giữ chức danh Chủ tịch Thượng viện, có quyền bỏ phiếu quyết định trong tình huống bất phân thắng bại (50/50).
Hạ viện gồm 435 Hạ nghị sỹ, 22 ủy ban và 7 ủy ban đặc biệt. Mỗi bang có ít nhất một Hạ nghị sỹ, còn lại căn cứ theo số dân của bang đó. Các Hạ nghị sỹ có nhiệm kỳ hai năm. Vào các năm chẵn, ngày Thứ Ba đầu tiên của tháng 11 sẽ tiến hành bầu cử Quốc hội, bầu lại toàn bộ Hạ viện và 1/3 Thượng viện.
Quốc hội hiện nay là khóa 114 (2014 – nay). Theo kết quả bầu cử giữa kỳ Quốc hội tháng 11.2014, Đảng Cộng hòa nắm đa số tại cả Hạ viện và Thượng viện. Hiện nay, Chủ tịch Thượng viện đồng thời là Phó Tổng thống Joseph Biden; Chủ tịch Tạm quyền Thượng viện Orrin Hatch; Lãnh tụ phe đa số và thiểu số tại Thượng viện lần lượt là Thượng nghị sỹ Mitch McConnell và Thượng nghị sỹ Harry Reid; Chủ tịch Hạ viện Paul Ryan; Lãnh tụ phe đa số và thiểu số tại Hạ viện lần lượt là Hạ nghị sỹ Eric Cantor và Hạ nghị sỹ Nancy Pelosi.
Cơ quan tư pháp
Toà án Tối cao gồm 1 Chánh án và 8 Thẩm phán, đều do Tổng thống chỉ định với sự chấp thuận của Thượng viện, nhiệm kỳ suốt đời. Chánh án Toà án tối cao hiện nay là John Roberts bắt đầu nhiệm kỳ từ tháng 9.2005.
Kinh tế
Hoa Kỳ là nước công nghiệp phát triển hàng đầu trên thế giới. Hoa Kỳ có nền kinh tế hỗn hợp, các tập đoàn và công ty tư nhân có vai trò quan trọng trong khi Chính phủ có xu hướng hạn chế tác động vào nền kinh tế.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2015 khoảng 17.900 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 24% GDP toàn thế giới; GDP theo đầu người là khoảng 54.629 USD. Trong cơ cấu kinh tế, dịch vụ chiếm khoảng 80%, công nghiệp 19%, nông nghiệp 1%.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ chiếm hơn 30% GDP, là nước xuất, nhập khẩu lớn nhất thế giới. Các bạn hàng buôn bán lớn nhất của Mỹ năm 2014 lần lượt là Canada, Trung Quốc, Mexico, Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc, Anh. Thâm hụt thương mại còn ở mức cao liên tiếp trong gần 2 thập kỷ (năm 2015: 484 tỷ USD).
Cuộc khủng hoảng kinh tế 2007 – 2009 đã đẩy nền kinh tế Mỹ vào suy thoái được coi là tồi tệ nhất kể từ Đại khủng hoảng 1929 – 1933. GDP của Mỹ giảm mạnh mà đỉnh điểm là Quý III.2008 (-6,3%) và Quý I.2009 (-5,5%). Cuộc khủng hoảng này đã kéo lùi các chỉ tiêu phát triển kinh tế Mỹ (7/10 chỉ số sản xuất của Mỹ dưới mức 2002), tỷ lệ thất nghiệp lên tới xấp xỉ 10%.
Mô hình kinh tế – tài chính của Hoa Kỳ bị nghi ngờ: trước đây Mỹ được coi là thiên đường an toàn của đầu tư quốc tế, cả ngắn hạn và dài hạn; hiện nay các nước đều thận trọng khi đầu tư vào Mỹ. Các tổ chức quốc tế do Mỹ lãnh đạo hoặc chi phối, như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) đang bị thách thức.
Kinh tế Mỹ sau khi thoát khỏi suy thoái đã duy trì đà phục hồi từ Quý III.2009 đến nay. Nhịp độ tăng trưởng GDP của Mỹ gần đây: năm 2012: 2,2%; năm 2013: 1,9%, năm 2014: 2,4%; năm 2015: 2,4%; quý I/2016: 0,5%. Tỷ lệ thất nghiệp tới tháng 4/2016 là 5,0%, mức thấp nhất từ 6/2008. Thâm hụt ngân sách năm 2015 của Mỹ là 439 tỷ USD (giảm 44 tỷ USD so với 2014).
Chính quyền Obama đã áp dụng các nhóm biện pháp giúp khôi phục và phát triển kinh tế.
Về kinh tế đối nội, sử dụng các gói kích thích kinh tế nhằm bơm thêm tiền vào nền kinh tế, duy trì lãi suất cơ bản thấp, khuyến khích vay vốn tiêu dùng và đầu tư, thông qua nhiều Đạo luật (giảm thuế, “tránh vách đá tài khóa”, cấp ngân sách liên bang tài khóa 2014-2015).
Về kinh tế đối ngoại, trong năm 2015, Chính quyền đã đẩy nhanh hoàn thành đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) thông qua thành công trong việc vận động Quốc hội thông qua Luật trao thẩm quyền đàm phán nhanh – TPA cho Tổng thống Mỹ, tạo thuận lợi cho Mỹ trong việc kết thúc thành công đàm phán TPP vào đầu tháng 10/2015.
Hiện TPP đang chờ được Quốc hội Mỹ phê chuẩn. Bên cạnh đó Mỹ cũng tập trung thúc đẩy Hiệp định xuyên Đại Tây Dương (TTIP), cải thiện quan hệ thương mại và đầu tư với EU, các đối tác Châu Phi…
Tổ chức
Là thành viên của các tổ chức: AfDB, ANZUS, APEC, ARF, AsDB, ASEAN (đối tác đối thoại), BIS, CE (quan sát viên), CERN (quan sát viên), CP, EAPC, EBRD, FAO, G-5, G-7, G- 8, G-10, IADB, IAEA, IBRD, ICAO, ICC, ICFTU, ICRM, IDA, IEA, IFAD, IFC, IFRCS, IHO, ILO, IMF, IMO, Interpol, IOC, IOM, ISO, ITU, MIGA, MINUSTAH, NAM (khách mời), NATO, NEA, NSG, OAS, OECD, OPCW, OSCE, Câu lạc bộ Pari, PCA, UN, Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, UNCTAD, UNESCO, UNHCR, UNITAR, UNMEE, UNMIK, UNMIL, UNMOVIC, UNOMIG, UNRWA, UNTSO, UPU, WCL, WCO, WHO, WIPO, WMO, WTO, ZC.
Tôn giáo
Tin lành: 51,3%; Cơ đốc giáo La Mã: 23,9%; Do thái: 1,7%; Các đạo khác: 4,7%; Không theo đạo nào: 16,1%.
Quan hệ ngoại giao với Việt Nam
Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 12 tháng 7 năm 1995.
Các hiệp định, văn bản đã ký giữa hai nước
– Hiệp định về thiết lập quan hệ quyền tác giả (ngày 27/6/1997)
– Hiệp định về hoạt động của Cơ quan đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) tại Việt Nam (ngày 26/3/1998)
– Hiệp định Bảo lãnh khung và Hiệp định khuyến khích dự án đầu tư giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hoa Kỳ – EXIMBANK (ngày 9/12/1999)
– Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (ký ngày 13/7/2000, có hiệu lực ngày 10/12/2001)
– Hiệp định Hợp tác về khoa học và công nghệ (có hiệu lực từ ngày 26/3/2001)
– Hiệp định Dệt – may (có hiệu lực từ 1/5/2003)
– Hiệp định Hàng không (có hiệu lực từ 14/1/2004)
– Thư thoả thuận hợp tác về phòng chống ma tuý (có hiệu lực từ ngày 26/2/2004)
– Hai bên đang đàm phán để ký kết Hiệp định khung hợp tác về kinh tế và kỹ thuật
– Hiệp định hợp tác về Vận tải biển
– Bản Ghi nhớ hợp tác về Nông nghiệp.
– Tuyên bố chung về hợp tác y tế giữa hai Bộ Y tế (12/1997)
– Thoả thuận hợp tác về thể dục thể thao (tháng 3/1999)
– Bản Ghi nhớ về hợp tác thuật trong lĩnh vực Khí tượng Thuỷ văn (1/2001)
– Biên bản Ghi nhớ giúp đào tạo nhân lực cho ngành Thuỷ sản Việt Nam (11/3/2003)
– Bản ghi nhớ về hợp tác lao động Việt nam – Hoa Kỳ (ký ngày 17/11/2000),…
– Năm 2003, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết Nguyên tắc hợp tác trong việc thực hiện Đề án Quỹ giáo dục của Hoa Kỳ dành cho Việt Nam (VEF). VEF đã bắt đầu cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ đào tạo.
Ngày 23/6/2004, Tổng thống Mỹ G.Bush tuyên bố đưa Việt Nam vào danh sách 15 nước hưởng viện trợ trong Kế hoạch Viện trợ khẩn cấp về phòng chống HIV/AIDS.
Quan hệ chính trị ngoại giao
Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12/7/1995, trao đổi Đại sứ đầu tiên vào tháng 7/1997, mở Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh và Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco vào tháng 11/1997.
Hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao.
Về phía Việt Nam thăm Mỹ có:
– Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm (1998, 2000)
– Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng (2001)
– Phó Thủ tướng Vũ Khoan (2003) và nhiều đoàn cấp Bộ trưởng
– Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Mỹ (tháng 6 năm 2005)
Phía Mỹ cũng cử nhiểu đoàn cấp cao thăm Việt Nam:
– Ngoại trưởng W.Chistopher (1995)
– Ngoại trưởng M.Albright (1997)
– Cố vấn an ninh quốc gia A. Lake (1996)
– Cựu Tổng thống G. Bush (1995)
– Bộ trưởng Quốc phòng Cohen (2000)
– Ngoại trưởng C.Powell (2001)
– Tổng thống Mỹ Clinton tháng 11/2000. Ngoài ra, lãnh đạo cấp cao hai nước đã gặp gỡ tại các diễn đàn đa phương.
Quan hệ kinh tế
1. Về thương mại:
Từ khi Việt Nam và Hoa kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay (12/7/1995), buôn bán giữa hai nước đã có những bước phát triển nhảy vọt, đặc biệt là xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Hoa Kỳ. Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ đã góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Theo số liệu của Hải quan Mỹ, năm 1993 Việt Nam chưa hề xuất khẩu sang Mỹ bất kỳ một sản phẩm nào và cũng chỉ nhập khẩu từ Mỹ khoảng 7 triệu USD. Sau khi Tổng thống Bill Clinton quyết định chấm dứt cấm vận buôn bán với Việt Nam ngày 3/2/1994, hàng hóa của Việt Nam bắt đầu tiếp cận thị trường Mỹ và ngay trong năm đầu tiên này, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã đạt 50,5 triệu USD.
Sau khi có BTA, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng mạnh từ 1.053 triệu USD năm 2001 lên 5.276 triệu USD năm 2004. Việt Nam hiện nhập khẩu hơn 1 tỷ USD mỗi năm từ thị trường Mỹ. Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là hàng dệt may, thủy hải sản, dầu khí, giày dép và đồ gỗ gia dụng và nhập khẩu từ Mỹ các thiết bị y tế, máy bay, máy công cụ.
Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng tới 5 lần kể từ sau khi có BTA, song con số này cũng chỉ mới chiếm khoảng 0,4% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ. Với kim ngạch nhập khẩu 1.764 tỷ USD năm 2004, Mỹ đang là thị trường lớn cho các loại hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam.
Cùng với những thuận lợi khách quan, trong những năm qua các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã không ngừng đầu tư phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ, nhờ đó khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế đã được cải thiện, cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng phong phú hơn. Trong bối cảnh chung của quan hệ giữa hai nước đang từng bước được cải thiện, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận và hiểu biết hơn về thị trường Mỹ. Tất cả những nhân tố đó đang tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất Việt Nam tiếp cận và mở rộng xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Theo ước tính của Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, năm 2005 Việt Nam có thể xuất khẩu sang Mỹ từ 5,7 đến 6 tỷ USD. Dệt may vẫn là nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, với khoảng 2,74 tỷ USD/năm. Sản phẩm dệt may của Việt Nam đang ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà nhập khẩu Mỹ nhờ chất lượng tốt và bảo đảm được thời hạn giao hàng.
Thuỷ hải sản vẫn chiếm vị trí thứ hai trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào Mỹ, cho dù sản lượng tôm đông lạnh xuất khẩu đã giảm hơn 40% trong năm 2004 và tiếp tục giảm trong những tháng đầu năm 2005 do tác động của vụ kiện bán phá giá.
Cho dù gặp nhiều khó khăn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ trong ba tháng đầu năm 2005 vẫn đạt 1,7 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ 1,5 tỷ USD, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trả lời phỏng vấn TTXVN tại Oasinhtơn mới đây, Đại sứ Marine cho biết Mỹ hoàn toàn ủng hộ Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ông cho rằng đây là bước đi tiếp theo tự nhiên sau khi hai nước đã bắt tay vào thực hiện BTA. Ông tin rằng sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Mỹ.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ: Hàng may mặc, giày dép, các sản phẩm sơ chế (hải sản, rau, quả, cà phê, cao su thô, dầu khí), các sản phẩm chế tạo thép, thiết bị điện, hàng gia dụng, hàng phục vụ du lịch,…
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Hoa Kỳ sang Việt Nam: Các sản phẩm sơ chế (thực phẩm, sợi dệt…), các sản phẩm chế tạo (phân bón, nhựa và các sản phẩm giấy, máy móc, thiết bị vận tải, thiết bị khoa học…)
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ (triệu USD)
Nhóm mặt hàng | 2003 | 11 tháng 2004 | Ước 2004 | Ước 2005 | +/- % |
Tổng kim ngạch | 4.472,0 | 4.760,9 | 5.035 – 5.085 | 5.750 – 6.000 | 14 – 18 |
Hàng dệt may | 2.514,1 | 2.595,70 | 2730 – 2.740 | 2.700 – 2.750 | 0 |
Thuỷ sản kể cả chế biến | 730.5 | 520,31 | 550 – 560 | 730 – 750 | 30 – 35 |
Giầy dép | 324,8 | 430,40 | 460 – 470 | 600 – 650 | 30 – 35 |
Đồ gỗ và trang trí nội thất | 189,6 | 336,10 | 360 – 365 | 530 – 560 | 45 – 50 |
Cà phê, điều, tiêu, cao su & các nông sản khác | 236,2 | 325,50 | 340 – 345 | 340 – 360 | 0 – 2 |
Dầu khí và sản phẩm dầu khí | 209,18 | 223,05 | 240 – 245 | 300 – 320 | 25 – 30 |
Các mặt hàng khác | 267,62 | 329,84 | 355 – 360 | 550 – 610 | 55 – 65 |
Tuy nhiên, trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế và thương mại, một số tranh chấp đã nảy sinh do chính sách bảo hộ của Hoa Kỳ như vấn đề cá tra, cá basa, tôm, hàng dệt may,…
Để quy mô thương mại song phương lớn hơn nữa, Việt Nam phải thúc đẩy quan hệ thương mại với Hoa Kỳ lên trình độ mới và cải thiện mạnh hơn nữa quan hệ chính trị với Hoa Kỳ sao cho hàng hóa của Việt Nam hoàn toàn bình đẳng với hàng hoá các nước khác và các công ty Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam ở quy mô lớn hơn nhiều so với hiện nay. Đây là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam.
2. Về đầu tư:
Bên cạnh những kết quả tích cực về trao đổi thương mại, hoạt động hợp tác đầu tư giữa hai nước cũng có những bước tiến đáng kể. Đại sứ Mỹ tại Hà Nội Michael Marine cho biết tổng vốn đầu tư trực tiếp của các công ty Mỹ vào Việt Nam hiện đạt khoảng 2,6 tỷ USD, trong đó 730 triệu USD được đầu tư trực tiếp từ Mỹ và 1,9 tỷ USD từ các công ty con của Mỹ ở nước ngoài. Ông cho biết Mỹ là nước đầu tư thực tế lớn nhất vào Việt Nam trong năm 2004, với 531 triệu USD, chiếm 19% tổng giá trị đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Lĩnh vực đầu tư lớn nhất của các công ty Mỹ vào Việt Nam là dầu lửa, chiếm gần 1 tỷ USD. Nhiều công ty Mỹ cũng đang quan tâm tới lĩnh vực chế tạo và dịch vụ ở Việt Nam.
Viện trợ kinh tế của Mỹ dành cho Việt Nam cũng tăng nhanh trong thập kỷ qua. Tổng giá trị các chương trình viện trợ do Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) giám sát và thực hiện ở Việt Nam đã tăng từ khoảng 2 triệu USD năm 1996 lên 12,5 triệu USD năm 2003. USAID có kế hoạch viện trợ cho Việt Nam 11 triệu USD trong tài khoá 2004 và 13 triệu USD trong tài khoá 2005.
Theo báo cáo của Cơ quan Nghiên cứu của Quốc hội Mỹ (CRS), tổng viện trợ của Mỹ cho Việt Nam, kể cả các chương trình của USAID, trong tài khoá 2003 đã lên tới 40 triệu USD. Các chương trình viện trợ lớn của Mỹ cho Việt Nam gồm phòng chống HIV/AIDS, chăm sóc trẻ em, trao đổi giáo dục, trợ giúp lương thực thực phẩm và hỗ trợ cho việc thực hiện BTA.
Quan hệ trong lĩnh vực Khoa học – Công nghệ, Văn hoá, Giáo dục – Đào tạo, Y tế và Lao động
Ngoài lĩnh vực kinh tế, Việt Nam – Hoa Kỳ còn hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác như: Hợp tác trong lĩnh vực Khoa học – Công nghệ, Văn hoá, Giáo dục – Đào tạo, Y tế và Lao động; Hợp tác về các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại; Quan hệ an ninh – quân sự; Hợp tác chống khủng bố.
Địa chỉ đại sứ quán
Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam:
Địa chỉ: Số 7 Láng Hạ, Hà Nội, Việt Nam
Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh
4 Lê Duẩn, Bến Nghé, Quận 1, Ho Chi Minh City, Việt Nam
Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ:
Địa chỉ: 1233 20th Street NW, Suite 400, Washington DC20036
Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Houston-Texas (Hoa Kỳ):
Địa chỉ: 5251 Westheimer Rd, Houston TX77056
Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại San Phran-xít-cô (Hoa Kỳ):
Địa chỉ: Suite 430, California street, San Francisco, CA 94109