Mai Đức Chung | |
---|---|
Mai Đức Chung | |
Sinh ngày | 1951 |
Nghề nghiệp | Cựu cầu thủ, huấn luyện viên bóng đá |
Quê quán | Hà Nội |
Với những người hâm mộ thể thao nước nhà và nhất là môn bóng đã nữ thì không còn xa lại với cái tên Mai Đức Chung. Cùng tìm hiểu về tiểu sử và sự cống hiến của ông đối với bóng đá nữ Việt Nam nhé!
Tiểu sử
Mai Đức Chung sinh ngày 01/01/1951 tại làng hoa Ngọc Hà, Hà Nội. Tuy nhiên, đó chỉ là năm sinh trên giấy tờ còn bạn bè đồng niên cho biết thực tế ông sinh năm 1949.
Sự nghiệp
Mai Đức Chung từng là một cầu thủ tài năng, có thể đảm nhận nhiều vị trí khác nhau trên sân cỏ, chủ yếu là trong vai trò tiền vệ. Sự nghiệp cầu thủ, ông nhận được nhiều lời mời của các câu lạc bộ thời đó nhưng ông không đầu quân cho các câu lạc bộ lớn thời đó mà hoạt động dưới đội Xe ca Hà Nội ít tiếng tăm, biệt danh từ Chung “Xe ca” cũng từ đây mà ra.
Tháng 9 năm 1975, Mai Đức Chung về thi đấu cho Tổng cục Đường sắt và gắn bó cùng câu lạc bộ cho đến khi giải nghệ. Ông với Tổng cục Đường sắt đã giành được chức vô địch Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1980. Ông được triệu tập vào đội tuyển quốc gia (1981 – 82) đi thi đấu nước ngoài đến năm 1984 ông giải nghệ cầu thủ.
Huấn luyện viên
Năm 1984, Mai Đức Chung chuyển sang học Huấn luyện viên và trở thành huấn luyện viên từ đó cho tới giờ. Trong hơn 30 năm gắn bó với bóng đá, ông từng trải qua nhiều chức vụ khác nhau như Trưởng bộ môn bóng đá của Tổng cục Thể dục thể thao và dẫn dắt nhiều đội bóng khác nhau từ đội nam đến các đội nữ.
Cấp độ Câu lạc bộ
Năm 1984, ông dẫn dắt đội Trẻ Tổng cục Đường sắt và giúp đội vô địch Giải bóng đá trẻ toàn quốc.
Từ năm 1985 đến 1999 trở thành HLV trưởng đội một Tổng cục Đường sắt. Giai đoạn 2000-2002, Mai Đức Chung là HLV dẫn dắt CLB ACB (nay là Hà Nội FC). ACB khi ấy chính là sự chuyển tiếp của Đường sắt Việt Nam.
Tháng 5/2009, ông được bổ nhiệm làm HLV trưởng CLB B.Bình Dương. Ông giúp B.Bình Dương vào tới bán kết AFC Cup. Đây là thành tích tốt nhất của một CLB thuộc V.League tại đấu trường châu lục cho tới năm 2019 (Hà Nội FC lọt vào trận chung kết Liên khu vực).
Tháng 4/2010, HLV Mai Đức Chung rời B.Bình Dương. Ông trở thành HLV trưởng CLB Navibank Sài Gòn dẫn dắt đội giành chức vô địch Cúp Quốc gia mùa 2011.
Tháng 2/2013, ông Mai Đức Chung thay HLV Triệu Quang Hà dẫn dắt CLB Thanh Hóa và rời đi năm 2014.Thời điểm ông chia tay CLB khi V.League 2014 đang diễn ra và chỉ còn 3 vòng đấu. Thanh Hóa giành vị trí thứ 3 với phần lớn điểm số có được dưới sự dẫn dắt của HLV Mai Đức Chung.
Năm 2015, ông trở lại dẫn dắt B.Bình Dương giúp đội chủ sân Gò Đậu kết thúc mùa đó theo cách đầy thành công: vô địch cả V.League lẫn Cúp Quốc gia.
Trong sự nghiệp của HLV Mai Đức Chung thì đây là chức vô địch V.League đầu tiên và duy nhất.
Cấp độ đội tuyển
Mai Đức Chung dành nhiều thời gian, gắn bó với các đội tuyển Việt Nam, đặc biệt là ĐT nữ. Mai Đức Chung giữ chức vụ trợ lý số 1 cho huấn luyện viên Alfred Riedl ở đội tuyển Việt Nam. Năm 2007, khi ông Alfred Riedl trải qua ca phẫu thuật ghép thận, ông đã dẫn dắt đội tuyển Olympic Việt Nam.
Đội tuyển Olympic Việt Nam giành được một số chiến thắng trước các đối thủ Tây Á như Liban và Oman tại vòng loại Olympic Bắc Kinh 2008. Chặng cuối của vòng loại Olympic, HLV Riedl đã giao cho ông quyền chỉ đạo đội tuyển Olympic trong 3 trận đấu cuối cùng.
Tại Asian Cup 2007, ông cũng là trợ lý cho HLV Alfred Riedl. Đội tuyển VN thi đấu thành công khi lần đầu tiên vượt qua vòng bảng, lọt vào vòng tứ kết.
Sau trận bán kết SEA Games 2007, ông trở thành HLV trưởng U23 Việt Nam thay cho ông Riedl. Ông cùng U23 Việt Nam so tài cùng U23 Singapore trong trận tranh Huy chương đồng.
Tới năm 2008, ông Chung được bổ nhiệm làm HLV trưởng đội tuyển U22 Việt Nam. Tháng 10 năm đó, ông cùng U22 Việt Nam giành Cúp Merdeka 2008 tại Malaysia.
Tháng 1/2012 ông Mai Đức Chung được bổ nhiệm làm HLV trưởng U19 Việt Nam nhưng ông chỉ đảm nhiệm trong một khoảng thời gian.
Năm 2017, ông Chung được bổ nhiệm làm HLV trưởng tạm quyền đội tuyển Việt Nam thay HLV Nguyễn Hữu Thắng. Khoảng thời gian này tuyển Việt Nam thực sự gặp khó khi bị loại ngay từ vòng bảng nội dung bóng đá nam của SEA Games 2017.
Tại vòng loại Asian Cup 2019, HLV Mai Đức Chung giúp ĐT Việt Nam toàn thắng 2 lượt trận trước Campuchia.
Trở thành HLV đội tuyển nữ Việt Nam
Trở thành HLV đội tuyển nữ VN và vai trò ông hoàn thành xuất sắc, giúp bóng đá nữ nước nhà gặt hái thành công và tỏa sáng nhiều lần.
Năm 1997, Mai Đức Chung được bổ nhiệm làm HLV trưởng ĐT nữ Việt Nam. Ông trở thành vị HLV trưởng đầu tiên của bóng đá nữ nước nhà gặt hái được hành công đó là vô địch giải tiền SEA Games 1997 và Huy chương đồng SEA Games 1997. Tiếp đến, ông cùng đội tuyển chinh phục 2 Huy chương vàng SEA Games (2003 và 2005).
Năm 2014, để chuẩn bị cho tuyển nữ dự ASIAD, VFF đã mời ông Chung trở lại và tạo nên bất ngờ lớn khi lần đầu tiên vào tới bán kết một kỳ ASIAD ở vị trí thứ tư.
Ông Mai Đức Chung và đội tuyển nữ VN liên tiếp giành Huy chương vàng SEA Games năm 2017, 2019, 2022 và vô địch AFF Cup (vào năm 2019). Ông Chung đã góp công đến 6 trong tổng số 8 huy chương vàng của bóng đá nữ Việt Nam ở thời điểm hiện tại.
Đầu năm 2022, HLV Mai Đức Chung đạt tới đỉnh cao sự nghiệp dẫn dắt ĐT nữ Việt Nam. Ông cùng toàn đội chinh phục thành công suất tham dự vòng chung kết World Cup 2022. Lần đầu tiên trong lịch sử một ĐT bóng đá quốc gia Việt Nam nói chung và ĐT nữ nói riêng được tranh tài tại một giải đấu thế giới.
Đời tư
Ông Chung kết hôn với bà Phạm Thị Ngọc Uyển (sinh năm 1952) vào năm 1977. Vợ ông là một giáo viên tiểu học, nay đã về hưu. Cả hai có hai người con, trong đó Mai Quang Hưng là cựu tuyển thủ của đội Việt Nam, cùng lứa với những Dương Hồng Sơn, Nguyễn Huy Hoàng hay Nguyễn Việt Thắng…
Danh hiệu và thành tích của HLV Mai Đức Chung
– B.Bình Dương
V.League: Vô địch (2015); Á quân (2009)
Cúp Quốc gia: Vô địch (2011)
– NaviBank Sài Gòn
Cúp Quốc gia: Vô địch (2011)
– U22 Việt Nam
Merdeka Cup: Vô địch (2008)
– ĐT nữ Việt Nam
SEA Games: Huy chương vàng (2003, 2005, 2017, 2019 và 2022)
AFF Cup nữ: Vô địch (2019)
ASIAD: Hạng 4 (2014)
Vượt qua vòng loại World Cup nữ 2023
Một số thành tích tiêu biểu
– HLV tiêu biểu Việt Nam 2005
– Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 2019)
– Huân chương Lao động hạng Nhất (năm 2022)