Kịch (tiếng Pháp : drame), thuật ngữ này được dùng theo hai cấp độ :
1. Ở cấp độ loại hình, kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Song nói đến kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng hành động, cử chỉ, điệu bộ và bằng lời nói (riêng kịch câm thì không diễn tả bằng lời).
Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở mang tính toàn nhân loại (như giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực,…). Những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành dộng của các nhân vật và theo những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa đựng nhiều kịch tính, tức là những sự căng thẳng do tình huống tạo ra đối với nhân vật.
Phần lớn kịch được xây dựng trên hành động bên ngoài với những diễn biến của chúng và theo những nguyên tắc có sự đấu tranh chống lại của các nhân vật. Tuy nhiên, cũng có hành động bên trong, qua đó nhân vật chủ yếu là suy ngẫm và chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết sức căng thẳng.
Trong kịch, những lời phát biểu của các nhân vật (trong đối thoại hoặc độc thoại) nói lên hành dộng, ý chí và sự tự khám phá tích cực của họ có một ý nghĩa quyết định. Còn những lời trần thuật (câu chuyện kể của nhân vật về những điểu đã qua, sự thông báo của người dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của tác giả trong kịch bản) chỉ đóng vai trò thứ yếu và nhiều khi không cần đến.
Về mặt kết cấu, vở kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra sự trùng khớp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch, đồng thời làm cho cái được trình diễn mang màu sắc xác thực của đời sống. Qua các thế kỷ khác nhau, mối quan hệ giữa ba yếu tố: thời gian, địa diểm, hành động trong kết cấu của kịch không ngừng thay đổi tùy theo quan niệm của người sáng tạo và quy mô, tầm vóc của những sự kiện, biến cố được phản ánh.
Trên cấp độ loại hình, kịch bao gồm nhiều thể loại : bi kịch, hài kịch, chính kịch, cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác nhau.
2. Ở cấp độ thể loại, thuật ngữ kịch (đram) được dùng để chỉ một thể loại văn học – sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch cũng còn gọi là chính kịch (hoặc kịch đram). Cũng giống như hài kịch, kịch tái hiện cuộc sống riêng của con người bình thường nhưng mục đích chính không phải là cười nhạo, chế giễu các thói hư tật xấu, mà là mô tả cá nhân trong các mối quan hệ chứa dựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống với bi kịch, kịch chú trọng tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó không căng thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể giải quyết được ổn thỏa. Còn các tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt, phi thường.
Kịch hình thành như một thể loại vào nửa sau thế kỷ XVIII qua sáng tác của các nhà Khai sáng ở Pháp và Đức như Đi-đơ-rô (1713 – 1784), Bô-mác-se (1732 – 1799), G.E. Lét-xing (1729 – 1781),… Nó hướng về những lợi ích tinh thần đạo đức, về lí tưởng của các lực lượng dân chủ tiến bộ đương thời. Trong quá trình phát triển của kịch, tính kịch bên trong của nó ngày càng cô đọng, dồn nén hơn. Nó cũng tiếp nhận những thủ pháp nghệ thuật, những phương tiện biểu đạt của các thể loại văn học sân khấu khác như bi hài kịch, kịch hề,… để tăng thêm sức hấp dẫn và tác động nghệ thuật của nó đối với công chúng.
Ở Việt Nam, kịch ra đời vào cuối những năm 20 của thế kỷ XX, với những sáng tác như Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Kim tiền của Vi Huyền Đắc,… Từ sau Cách mạng tháng Tám, kịch ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn học – sân khấu và xã hội ở nước ta.