Ký hiệu (tiếng Anh: sign) là đơn nguyên cơ bản nhất dùng để truyền đạt ý nghĩa: Bất cứ sự truyền đạt ý nghĩa nào đều phải sử dụng ký hiệu có khả năng làm cho người tiếp nhận cảm biết được theo một phương thức nào đó. Bản thân ý nghĩa nảy sinh ra trong những thông tin do ký hiệu tạo thành.
Đơn nguyên hoàn toàn phải dựa vào hệ thống mới có được ý nghĩa, điều này thể hiện rõ nhất trong ký hiệu.
Điện báo hay máy tính đem những đơn nguyên ký hiệu giản đơn nhất (chấm – vạch, đóng – mở) tạo thành một hệ thống phức tạp, có khả năng giữ gìn và truyền đi một lượng thông tin khổng lồ khó lòng tưởng tượng được. Những gì không nạp được vào hệ thống thì không thể hiểu được, không lưu giữ và cũng không truyền đạt được. Do đó định nghĩa về ký hiệu phức tập hơn nhiều cách hiểu chung chung là : “lấy vật này thay cho vật kia”.
Có thể định nghĩa ký hiệu : Ký hiệu tức là cái vật chất có thể cảm biết được mà người phát sử dụng để kích thích đối phương tiếp nhận (có thể là người, sinh vật, máy móc) nhằm truyền đạt một cách quy ước về một vật hoặc tình huống vắng mặt hoặc chưa xuất hiện.
Cụ thể là: ký hiệu liên quan tới hai sự vật ; một sự vật có thể cảm biết được ; một sự vật khác vắng mặt, chưa xuất hiện, mà sự truyền đạt này có ý nghĩa đối với người tiếp nhận ; sự truyền đạt này được tiến hành thông qua một kênh nhất định.
Phương diện có thể cảm biết ấy của ký hiệu là cái biểu đạt, cái vắng mặt đó là cái được biểu đạt. Cái ý nghĩa mà ký hiệu truyền đạt sở dĩ người tiếp nhận hiểu được là bởi vì cái ký hiệu đó đã được mã hoá theo cái mã mà người tiếp nhận cũng nắm được, còn bản thân sự truyền đạt thì tiến hành theo môi giới nhất định.